Trong khi NATO đã chi 1.341 tỷ USD cho quốc phòng vào năm 2023, chiếm 55% chi tiêu toàn cầu và vượt đáng kể tỷ trọng của các nước NATO trong nền kinh tế toàn cầu. Nếu tính cả ngân sách quốc phòng đang tăng nhanh của các quốc gia như Ukraine (64,8 tỷ USD), Nhật Bản (50,2 tỷ USD), Hàn Quốc (47,9 tỷ USD), Australia (32,3 tỷ USD) và chi tiêu quân sự của một số đồng minh nhỏ hơn của Mỹ, tổng ngân sách quân sự của phương Tây nhìn chung chiếm hơn 2/3 tổng ngân sách toàn cầu. Theo ước tính của SIPRI, tổng chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc (296 tỷ USD) và Nga (109 tỷ USD) tương ứng với 16,5% tổng chi tiêu toàn cầu, chưa đến 1/4 chi tiêu của toàn phương Tây.
Ngay cả khi điều chỉnh hết sức có thể sự bất cân xứng về cơ cấu ngân sách quốc phòng giữa Mỹ và các đối thủ địa chính trị chính của nước này, thì rõ ràng là việc lập kế hoạch ngân sách chi tiêu quốc phòng của Washington và các đồng minh vẫn không được thực hiện theo các nguyên tắc hợp lý và có tính răn đe tối thiểu. Nếu bất cứ điều gì đang cản trở sự tăng trưởng ngân sách quân sự ở phương Tây, thì đó không phải là những hạn chế về mặt chính trị mà là về mặt kinh tế – tình trạng thiếu lao động có trình độ đang gia tăng và các vấn đề mới phát sinh trong chuỗi cung ứng.
NATO chiếm gần 3/4 thị trường vũ khí thế giới
Có thể nhận thấy một xu hướng rõ ràng không kém trong hoạt động buôn bán vũ khí toàn cầu. Theo SIPRI, Mỹ đã bán số vũ khí trị giá 223 tỷ USD cho nước ngoài trong năm 2023, tăng 16% so với một năm trước đó. Đây là một xu hướng dài hạn – trong 5 năm qua, thị phần quân sự toàn cầu của Mỹ đã tăng từ 34 lên 42%. Xu hướng này được ghi nhận trong bối cảnh thị phần của Mỹ trong tổng xuất khẩu thế giới đang giảm dần và hiện chỉ chiếm hơn 8%. Như vậy, trong khi dần mất đi vai trò “công xưởng thế giới” vào tay Trung Quốc và các nước khác, Mỹ ngày càng định vị mình là bên cung cấp vũ khí chính của thế giới.
Mỹ đã và đang tiếp tục là nước dẫn đầu thế giới trong cuộc chạy đua vũ trang. Ảnh: Pixabay |
Số liệu thống kê của NATO cũng mang tính biểu tượng – thị phần của liên minh trong việc cung cấp vũ khí toàn cầu cho nước ngoài trong năm 2019-2023 tăng từ 62 lên 72%, tức là NATO chiếm gần 3/4 thị trường vũ khí thế giới. Pháp đã chứng minh mức tăng đặc biệt mạnh – 47% trong 5 năm. Ngoài việc cung cấp vũ khí thương mại, Mỹ và các nước NATO khác đang mở rộng mạnh mẽ các chương trình hỗ trợ kỹ thuật – quân sự cho nhiều đối tác ở châu Âu, châu Á, Trung Đông và châu Phi. Hầu hết các dự báo đều cho rằng Washington và các đồng minh sẽ tiếp tục củng cố vị thế của mình trong việc trang bị vũ khí cho phần còn lại của thế giới, từ đó làm trầm trọng hơn nữa vòng xoáy của cuộc chạy đua vũ trang.
Tình hình địa chính trị hiện nay không có lợi cho bất kỳ hành động tự kiềm chế nào trong lĩnh vực chi tiêu quân sự, chưa kể các sáng kiến giải trừ quân bị sâu rộng. Việc kiểm soát vũ khí chiến lược giữa Nga và Mỹ đã bị đóng băng hoàn toàn và có thể không bao giờ được khôi phục theo hình thức trước đây. Việc kiểm soát vũ khí thông thường ở châu Âu cũng không khá hơn – trong bầu không khí đối đầu quân sự giữa Nga và NATO, ngay cả ý tưởng về khả năng hạn chế lẫn nhau trong lĩnh vực quân sự tại chiến trường châu Âu cũng giống như một trò đùa. Việc nói về triển vọng trong việc kiểm soát vũ khí ở Trung Đông hoặc Đông Bắc Á trong bối cảnh xung đột đang diễn ra ở Dải Gaza và việc trao đổi các cuộc tấn công tên lửa giữa Israel và Iran sẽ bị coi là suy đoán vu vơ, nếu không muốn nói là phi lý.
Đánh giá của SIPRI đã liên hệ một cách đúng đắn sự bùng nổ quốc phòng đang diễn ra với các cuộc xung đột ở những nơi như Ukraine và Trung Đông, cũng như căng thẳng gia tăng ở nhiều nơi khác trên thế giới. Năm 2024 rất khó có thể trở thành một bước ngoặt mang tính quyết định giúp chuyển mũi nhọn của chính trị thế giới từ chiến tranh và khủng hoảng sang hòa bình hoặc ít nhất là giảm leo thang. Nhưng ngay cả khi ngày mai, bằng một phép màu nào đó, tất cả các cuộc xung đột vũ trang đang diễn ra hiện nay sẽ chấm dứt, thì cuộc chạy đua vũ trang toàn cầu vẫn sẽ không dừng lại. Các chương trình mua sắm quân sự hiện đại có sức ì nội bộ rất lớn. Ví dụ, máy bay ném bom chiến lược nổi tiếng B-52 của Mỹ được thử nghiệm năm 1952, đưa vào sử dụng năm 1955 và theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng Mỹ, có thể tiếp tục phục vụ cho đến năm 2064.
Ngoài ra, các tên lửa đạn đạo chiến lược, tàu ngầm tấn công và tàu sân bay đang được thiết kế ngày nay có thể sẽ được triển khai đầy đủ trong 15 đến 20 năm nữa và sẽ định hình bối cảnh chiến lược toàn cầu trong phần lớn nửa sau của thế kỷ 21. Một số hệ thống thành công nhất sẽ có thể tồn tại cho đến thế kỷ 22.